HỌC TẬP TƯ DUY VÀ PHONG CÁCH BÁO CHÍ HỒ CHÍ MINH
Tư duy và phong cách báo chí Hồ Chí Minh cụ thể hóa tư tưởng của Người về văn hóa: “Văn hóa là một mặt cơ bản của xã hội”, “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận”, “Văn hóa mới kết hợp hài hòa, đúng đắn truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế”. Báo chí là bộ phận cấu thành văn hóa, đồng thời là một phương tiện xây dựng, truyền bá, thực thi văn hóa trong cuộc sống hằng ngày. Báo chí là đội quân đi đầu trong công tác tư tưởng, với chức năng ban đầu là tuyên truyền, cổ động, tổ chức, hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”1. Rất nhiều lần, Người trở lại và nhấn mạnh ý ấy: “cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng để động viên quần chúng đoàn kết đấu tranh, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới...”2, “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà...”3.
Từ những ngày đầu sống ở nước ngoài, được qua lại nhiều nước phát triển ở các châu lục, Bác Hồ sớm nhận ra vai trò và tác động to lớn của báo chí trong đấu tranh xã hội bất kỳ dưới chế độ chính trị nào. Trong quá trình tìm đường giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, Người tiếp cận các tác phẩm của V.I. Lênin, và tâm đắc điều vị lãnh tụ lỗi lạc phát biểu khá lâu trước ngày Cách mạng Tháng Mười Nga thành công: Cái mà chúng ta nhất thiết phải có lúc này là một tờ báo chính trị. Trong thời đại ngày nay, không có tờ báo chính trị thì không thể có phong trào gọi là chính trị... Không có tờ báo thì không thể tiến hành có hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động có nguyên tắc và toàn diện...
Tư tưởng ấy là động lực thôi thúc Hồ Chí Minh trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng tìm cách thành lập cho bằng được tờ báo của mình với tôn chỉ phục vụ sự nghiệp của dân tộc. Nó động viên Người không ngừng phấn đấu để trở thành nhà báo lớn nhất nước Việt Nam trong mọi thời đại, một cây bút ngang tầm những tên tuổi nổi bật về văn hóa và báo chí thế giới.
Sau những năm bôn ba, Nguyễn Ái Quốc đến Vương quốc Anh và sống ở đó một thời gian với mục đích tìm hiểu, học tập những cái hay của một nền văn hóa tiêu biểu ở châu Âu, nơi ra đời sớm nhất chế độ nghị viện và cũng là một trong những vùng có mấy tờ báo đầu tiên của nhân loại. Cuối năm 1917, Bác Hồ đến Pháp và dừng chân sinh sống tại Paris. Đây là khoảng thời gian Bác đặt chân vào nghề báo. Sau những bước chập chững học nghề, Người viết những bài báo đầu tiên bằng tiếng Pháp, hầu hết đăng trên các báo cánh tả của chính trường Pháp. Chỉ ba năm sau, được sự ủng hộ và giúp đỡ của các chí sĩ Việt Nam tại Pháp và sự hợp tác của bạn hữu quốc tế, báo Le Paria (Người cùng khổ) do Người là một trong những người sáng lập, ra số đầu ngày 1/4/1922. Nguyễn Ái Quốc vừa làm chủ nhiệm, chủ bút, quản lý, vừa là người thực hiện. Jean Lacouture (1920-2015), nhà văn, nhà báo, nhà viết tiểu thuyết nổi tiếng ở Pháp, tác giả người nước ngoài đầu tiên xuất bản cuốn tiểu sử Hồ Chí Minh khi Bác Hồ còn tại thế (1967) nhận định: Sự đóng góp của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria rất to lớn. Ngày nay đọc lại các bài của ông (đăng trên báo ấy) ta vẫn thấy vô cùng hứng thú... Văn phong của Nguyễn là văn phong của một nhà luận chiến tài ba4.
Song song việc chủ trì tờ Le Paria, Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị xuất bản tờ báo tiếng Việt dành cho người Việt Nam sinh sống ở Pháp, báo Việt Nam hồn, trước khi bí mật lên tàu sang Liên Xô. Những ngày sinh sống tại Paris, dưới sự giám sát gắt gao của mật thám Pháp, Người vẫn cộng tác với một số tờ báo có thanh thế và đông độc giả tại Pháp hồi bấy giờ như L’Humanité (Nhân đạo), La Vie ouvrière (Đời sống thợ thuyền), Le Populaire (Người bình dân)...
Sang Liên Xô, người cộng tác với nhiều tờ báo Xô viết qua tiếng Nga. Thời gian làm việc tại Đức, Người viết báo tiếng Đức. Khi ở Trung Quốc, Người là cộng tác viên của Cứu vong nhật báo, đồng thời viết bài đều đều cho mấy tờ báo tiếng Anh. Đặc biệt, khi hoạt động tại đây, Người sáng lập báo Thanh niên, số 1 ra ngày 21/6/1925, khơi dòng báo chí cách mạng Việt Nam. Cống hiến lịch sử của báo Thanh niên là chuẩn bị về lý luận, chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian Người tạm lánh sang Thailand, Người cho ra mấy tờ báo tiếng Việt như Thân ái, Đồng thanh tập hợp, đoàn kết Việt kiều sinh sống tại đây hướng về Tổ quốc. Năm 1941, vừa đặt chân về quê hương sau nhiều năm bôn ba gian khó tại nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc sáng lập báo Việt Nam độc lập tại Việt Bắc nhằm mục đích: “Kêu gọi nhân dân trẻ với già/Đoàn kết một lòng như khối sắt/Để cùng nhau cứu nước Nam ta”. Trong những ngày toàn dân ta sôi nổi tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Người đã quyết định và chỉ đạo việc cho ra đời Đài phát thanh quốc gia Tiếng nói Việt Nam, tiếp ngay sau đó là hãng thông tấn quốc gia Thông tấn xã Việt Nam trước ngày đọc Tuyên ngôn độc lập.
Với tư cách nhà báo, Hồ Chí Minh sử dụng điêu luyện cây bút báo chí, đồng thời viết kịch nói, truyện ngắn, tùy bút văn học, vẽ ký họa, làm thơ... Người không coi mình là nhà báo chuyên nghiệp mà chỉ là “người có nhiều duyên nợ với báo chí” nhưng trên thực tế Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh dưới nhiều bút danh khác nhau5, là một nhà lý luận báo chí, một cây bút uyên thâm, đa dạng, sắc bén, tài hoa nữa, với hàng loạt tác phẩm chuẩn xác về nội dung, hùng hồn về lý luận, mẫu mực trong cách sử dụng ngôn từ phù hợp đối tượng của từng tờ báo, lúc nào cũng có sức đi sâu vào quần chúng, thức tỉnh lòng người, khiến quân thù khiếp sợ. Người không có ý làm nhà lý luận về báo chí, truyền thông, song những phát biểu của Người về văn hóa, thông tin, báo chí là một hệ thống quan điểm mang tính kinh điển về báo chí Việt Nam vào những giai đoạn khác nhau. Không riêng những người làm báo, các nhà nghiên cứu các lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, thông tin, giáo dục, đối ngoại... đều có thể học tập, tham khảo tư tưởng báo chí của Người./.
Bác Hồ với các đại biểu dự Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam (9/1962) |
Tư tưởng báo chí Hồ Chí Minh bao trùm nhiều lĩnh vực.
Tư duy của Người về vai trò của báo chí cách mạng trùng hợp với ý kiến các nhà tư tưởng lớn, những người sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin: C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin. Trong nhiều trường hợp, Hồ Chí Minh gọi báo chí là vũ khí sắc bén của cách mạng, là đội quân xung kích trong công tác tư tưởng... Chức năng của báo chí là tuyên truyền, huấn luyện, giáo dục, tổ chức dân chúng... qua các phương tiện thông tin, bằng những thủ pháp nghề nghiệp. Đây là cách diễn đạt mới, rộng hơn câu nói của V.I. Lênin: “Báo chí là người tuyên truyền, cổ động, người tổ chức tập thể”. Người rất coi trọng chức năng giáo dục của báo chí, đặc biệt sau ngày tổng khởi nghĩa thành công, Việt Nam đã trở thành một nước độc lập, dân chủ. Trên các báo, sách của ta sau năm 1945, đặc biệt sau ngày hòa bình lập lại ở miền bắc năm 1954, thường xuyên xuất hiện lời kêu gọi nhân dân “Học tập và làm theo báo Đảng” ở nơi dễ bắt mắt nhất, kèm theo luôn là câu “Mong bạn đọc góp ý, phê bình”. Cần phải nói, trên thế giới, khái niệm về chức năng giáo dục báo chí xuất hiện muộn hơn nhiều. Giữa thập niên 1970, trước sự bùng nổ của truyền thông và văn hóa, nghệ thuật đại chúng coi việc phục vụ giải trí, thu nhiều lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, Đại hội đồng UNESCO sau mấy kỳ thảo luận đã ra quyết định thành lập Ủy ban quốc tế về các vấn đề của truyền thông. Ủy ban gồm 16 thành viên, hầu hết là những tên tuổi lẫy lừng trên thế giới6, do nhà báo, luật sư, chính khách Sean McBride, cựu ngoại trưởng nước Cộng hòa Ireland, người được trao Giải Nobel và Giải Lênin vì hòa bình, làm Chủ tịch. Sau mấy năm hoạt động, được sự hưởng ứng và tham gia nghiên cứu, phản biện của hàng trăm tổ chức và cá nhân, thể hiện qua 100 văn bản, bản Báo cáo của Ủy ban được trình Đại hội đồng UNESCO (gọi tắt là Báo cáo McBride) dày gần 370 trang, được Đại hội đồng UNESCO chính thức thông qua sau mấy kỳ thảo luận7, và cho xuất bản thành sách tháng 02/1980. Báo cáo McBride khẳng định: Truyền thông có 8 chức năng chính, trong đó có 2 chức năng là Giáo dục và Thúc đẩy văn hóa. Báo chí chuyển tải kiến thức nhằm phát triển trí tuệ, hình thành tính cách con người, giúp con người có đủ năng lực thích ứng với mọi giai đoạn của một đời người. Về văn hóa, báo chí phổ cập các công trình nghệ thuật, góp phần bảo tồn các di sản văn hóa của nhân loại, mở rộng tầm nhìn của con người qua việc khơi dậy đầu óc tưởng tượng và kích thích nhu cầu thẩm mỹ, sáng tạo. Tôn chỉ của báo chí Việt Nam trước sau vẫn là phục vụ sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc, đoàn kết toàn dân, thi đua yêu nước; xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà, bảo vệ hòa bình thế giới... Hồ Chí Minh nhấn mạnh, báo chí phải “đấu tranh cho tự do, cho chân lý, cho tương lai tươi sáng của loài người...”8. Trong tư duy báo chí của Người, đối tượng của báo chí, truyền thông không bó hẹp trong một số tầng lớp vốn có điều kiện dễ dàng tiếp cận thông tin, mà báo chí phải hướng về “đại đa số dân chúng”, vì đông đảo nhân dân, bao gồm và đặc biệt là những người học vấn không cao lắm. Tính chất báo chí, theo Người, trước hết là tính quần chúng và tinh thần chiến đấu. Ngay vào thời mà hiện nay ta quen gọi là thời bao cấp, khi cả hệ thông báo chí nước nhà được Đảng và Nhà nước chăm lo cho mọi thứ, từ nhu cầu về tài chính, hạ tầng đến các điều kiện tác nghiệp, Người đã khẳng định báo chí cũng là một ngành kinh tế. Báo chí không chỉ có trách nhiệm phục vụ các nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế mà báo chí còn phải lo về mặt kinh tế cho hoạt động của chính mình. Quan điểm báo chí Hồ Chí Minh coi trọng tự do tư tưởng. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do... Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý... Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”9. Vậy thì chân lý ở đâu, chân lý là cái gì, chân lý thể hiện ở những mặt nào? Người giải đáp: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân”10. Về phong cách báo chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn báo chí, truyền thông phải gần gũi quần chúng. Nhà báo cần tâm niệm suốt đời: Vì ai mình viết? Viết cho ai? Viết để làm gì?. Văn phong báo chí phải giản đơn, dễ hiểu, phổ thông, hoạt bát... nhưng tuyệt nhiên không thông tục. Người dặn bài báo phải đúng đồng thời phải hay, viết có hay mới có đông người đọc. Báo chí cần phấn đấu để khỏi bị chê là “báo lá cải”. Song song với yêu cầu giản đơn, dễ hiểu, Người căn dặn nhà báo hãy cố gắng viết cho văn chương, cho người đọc thấy hay, thấy văn chương người ta mới thích đọc. Báo chí trong bất kỳ bối cảnh nào cũng vẫn là diễn đàn của nhân dân. Sản phẩm báo chí mang dấu ấn cá nhân, nhưng làm ra một tờ báo là công sức, tâm huyết của cả tập thể. Tính tập thể của nghề báo trong tư duy Hồ Chí Minh không đơn thuần thể hiện về mặt nội dung, mà còn ở lối làm việc hài hòa của cả tòa báo, bao gồm người viết, người in, người sửa bài, người phát hành... ăn khớp với nhau. Đi đôi với việc đề cao tính tập thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng tài năng cá nhân. Người khuyến khích mọi người nên biết vận dụng thế mạnh của mình, phát huy biệt tài của mình khi tác nghiệp. “Nói đến báo chí trước hết phải nói đến những người làm báo chí”11, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm việc xây dựng đội ngũ những người làm báo, và tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp của họ, Hội Nhà báo Việt Nam. Người nhiều lần nhấn mạnh vai trò “chiến sĩ” của người làm báo, đòi hỏi nhà báo phải kiên định lập trường, giữ vững quan điểm, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt. Nhà báo phải là người chí công vô tư, có hiểu biết rộng và nhất là cái tâm trong sáng. Nhà báo cần thường xuyên nâng cao đạo đức nghề nghiệp. Hễ có dịp gặp các nhà báo là Người nhắc nhở chuyện này. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về đạo đức báo chí, là một người làm báo với nội dung chân chính, cao cả nhất của từ ấy. Khi cầm trên tay cây bút hay gõ máy chữ viết báo, Người không quan tâm đến việc đề cao tên tuổi hay vì lợi ích riêng. Người khuyên các nhà báo chớ nên nghĩ viết báo là để “lưu danh thiên cổ”. Suốt cả cuộc đời cầm bút, Người luôn hướng về cái đích mang trí tuệ, tâm huyết và tài năng của mình phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân loại. Để đạt được đỉnh cao trong sáng ấy, trở thành một nhà báo lớn, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã kiên trì học tập, “khổ luyện suốt đời”. Khi mới đặt chân đến Pháp, do nhu cầu đấu tranh vì độc lập, tự do của đất nước, nhận thấy sự cần thiết trở thành một nhà báo viết tiếng Pháp giỏi, Nguyễn Ái Quốc khởi đầu bằng cách tập viết những mẩu tin ngắn, “mỗi tin chỉ có năm ba dòng”. Khi mẩu tin hoặc bài viết ngắn được đăng lên báo, Người mang ra so sánh bản thảo mình viết với bản đã được tòa soạn biên tập, từ đó tìm hiểu xem các bậc đàn anh đã chỉnh sửa ở những chỗ nào. Nhờ thông qua cách vừa làm vừa học, sau chưa đến hai năm tính từ ngày đặt chân lên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã là tác giả nhiều bài chính luận, tiểu phẩm, điều tra... có giá trị về nội dung, hấp dẫn trong cách thể hiện, làm kinh ngạc nhiều nhà trí thức Pháp có dịp đọc bài của Người. Cho dù nhận mình chỉ là “người có nhiều duyên nợ với báo chí”, cả cuộc đời của Người, từ những ngày phải trốn tránh kẻ thù cho đến khi đảm đương nhiều trọng trách của quốc gia, thời gian luôn eo hẹp, Người không rời cây bút. Năm 1955 có hai ngày đầu năm, Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán Ất Mùi. Trong khoảng thời gian ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh dù bề bộn đại sự quốc gia, đã viết tới 52 bài báo, chỉ tính riêng những bài đăng trên báo Nhân Dân12. Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho báo chí và những người làm báo mối quan tâm và lòng ưu ái đặc biệt. Đó là một đức tính, một phong cách không phải nhà lãnh đạo kiệt xuất nào trên thế giới xưa nay cũng có thể có. Nhà báo PHAN QUANG |
Nhận xét
Đăng nhận xét