Giao lưu văn hóa - quan điểm nhất quán,
cởi mở và có hệ thống của Đảng ta
(TG) - Từ khi
ra đời đến nay, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đều
có những quan điểm nhất quán, cởi mở và có hệ thống về giao lưu văn hóa với
nước ngoài. Đóng cửa, khép kín và kỳ thị văn hóa nước ngoài là những xu hướng
xa lạ với Đảng ta.
Ngay từ khi chưa giành được chính
quyền, việc Đảng vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam để đề ra
đường lối tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa đã
là một dấu ấn in đậm giao lưu văn hóa. Hồ Chí Minh coi V.I.Lênin là “hiện thân
của tình bác ái”(1), còn chủ nghĩa Lênin là “Cẩm nang thần kỳ… là mặt trời soi
sáng đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng” tức là văn hóa(2).
Giao lưu văn hóa trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa ngày nay đòi hỏi bản
lĩnh văn hóa Việt Nam, bởi nó là phẩm chất tự quyết định một cách độc lập thái
độ, hành động của chúng ta, không vì áp lực bên ngoài mà thay đổi quan điểm.
Bản lĩnh, bản sắc dân tộc là cơ sở của giao lưu văn hóa. Trong mọi hoạt động
văn hóa, Đảng ta bao giờ cũng quan tâm đến truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Nhiều nhà hoạt động văn hóa trong những
thập niên 20, 30 của thế kỷ trước đã giới thiệu trên báo chí công khai sự
nghiệp, sáng tác của M.Gorki, Lỗ Tấn, R.Rôlăng, H,Bácbuytx. Tiểu thuyết Người
mẹ được một số nhà chính trị dịch trong nhà tù đế quốc và truyền tay
nhau để đọc. Chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác
được truyền bá, được coi là cơ sở lý luận cho các cuộc tranh luận học thuật
trên báo chí công khai.v.v..
GIAO
LƯU VĂN HÓA LÀ MỘT QUY LUẬT CỦA THỜI ĐẠI
Giao lưu văn hóa là một hiện tượng phổ
biến của xã hội loài người, là quy luật vận động, phát triển của mọi nền văn hóa.
Giao lưu văn hóa phản ánh sự học hỏi và tiếp nhận tri thức, kinh nghiệm của các
quốc gia trên nhiều lĩnh vực, trước hết là những thành tựu về trí tuệ, khoa
học, công nghệ, về kinh nghiệm tổ chức, quản lý nhà nước. Lịch sử giao lưu văn
hóa quốc tế đưa lại cho nhân loại ánh sáng trí tuệ, những phát minh, những kinh
nghiệm trong lao động sáng tạo. Nhờ giao lưu văn hóa đúng hướng mà các nước
chậm phát triển có cơ hội trở thành những nước phát triển trong thời gian ngắn.
Từ sau đổi mới, trong các nhiệm kỳ Đại
hội toàn quốc, với những cách diễn đạt khác nhau, Đảng ta đều xác định: trong
giao lưu văn hóa cần tránh hai thái cực: hoặc tâm lý bảo thủ, tư
tưởng kiêu ngạo dân tộc mà tự kìm hãm mình trong tình trạng lạc hậu;
hoặc sùng bái mù quáng choáng ngợp trước những “cái lạ”,
“cái mới” mà tiếp thu thiếu chọn lọc xô bồ mọi hiện tượng văn hóa. |
Do hoàn cảnh lịch sử, việc giao lưu văn
hóa với thế giới của Việt Nam bị chậm trễ cả về không gian và thời gian so với
nhiều nước. Nhưng bù lại, chúng ta có kinh nghiệm hội nhập văn hóa mà không bị
đồng hóa. Trong quá trình tiếp xúc với văn hóa Pháp, khoảng từ năm 1919 trở đi,
một phong trào canh tân các loại hình văn hóa - nghệ thuật được dấy lên: từ văn
tự, ngôn ngữ, báo chí, giáo dục, văn thơ, hội họa, âm nhạc đến sân khấu, điện
ảnh nhằm chuyển tải những giá trị dân tộc, nói lên tâm hồn, lối sống, tập quán,
tâm lý, thị hiếu của người Việt Nam vào những thập niên đầu thế kỷ. Trong hàng
ngàn năm dưới ách đô hộ của phong kiến Trung Hoa, khi tiếp xúc với văn hóa
phương Bắc, các văn nhân, trí sĩ của ta luôn sáng tạo với phương châm “dĩ bất
biến ứng vạn biến” để hôm nay chúng ta có được một nền văn hóa riêng, độc lập
mà không biệt lập, hội nhập mà không hòa tan.
Tuy nhiên, nhiều năm gần đây, những
quan niệm về giao lưu văn hóa cũng có chỗ bất cập. Giao lưu văn hóa phải
có nhận và cho. Song, cái không cần thiết, thậm
chí độc hại thì lại đang có xu hướng “nhận” - nhập vào ồ ạt theo nhiều con
đường khác nhau. Điều này đã được nêu lên trong Văn kiện Hội nghị Trung ương 5
khóa VIII: “Giao lưu văn hóa với nước ngoài chưa tích cực và chủ động, còn
nhiều sơ hở. Số văn hóa phẩm độc hại, phản động xâm nhập vào nước ta quá lớn;
trong khi đó, số tác phẩm văn hóa có giá trị của nước ta đưa ra bên ngoài còn
quá ít”(3).
Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đề
cương văn hóa 1943 cho đến những văn kiện Đại hội XIII (năm 2021), ở
những mức độ khác nhau và tùy theo điều kiện lịch sử khách quan đã coi giao lưu
văn hóa là một nội dung chiến lược quan trọng, bao chứa nhiều quan điểm nhất
quán, nhưng với phương châm hành động khác nhau. Trong Đề cương văn hóa
1943, chúng ta chưa thấy xuất hiện thuật ngữ “giao lưu văn hóa”, bởi bấy
giờ phương châm chủ yếu của văn hóa Việt Nam là chống. Chống nguy
cơ chính sách văn hóa của thực dân Pháp và phát xít Nhật nhằm giết chết văn hóa
nước ta; chống việc Âu hóa một cách lố lăng, Nhật hóa một cách xô bồ, việc học
Tống Nho một cách mê muội; đấu tranh với các triết thuyết và tông phái văn nghệ
trái với chủ nghĩa Mác. Những yếu tố xây như ba nguyên tắc: dân tộc hóa, khoa
học hóa, đại chúng hóa, xây dựng văn hóa tân dân chủ Đông Dương, trong đó có
Việt Nam… là những yếu tố đặt điều kiện giao lưu văn hóa cho các giai đoạn tiếp
theo.
Ngày 24/11/1946, tại Nhà hát lớn Hà
Nội, Hội nghị văn hóa toàn quốc khai mạc, Hồ Chủ tịch lên diễn đàn với những
kiến giải sâu sắc: “Văn hóa có liên quan mật thiết với chính trị. Văn hóa soi
đường cho quốc dân, phải làm thế nào để văn hóa ăn sâu vào tâm lý quốc dân… và
phải lấy tự do, độc lập làm gốc”; theo Người: “Có cái gì tốt của Đông phương
hay Tây phương ta phải học lấy để tạo nên một nền văn hóa Việt Nam. Lại phải
lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi văn hóa Việt Nam
có tinh thần thuần túy Việt Nam, hợp với tinh thần dân chủ”(4). Như vậy, quy
luật giao lưu văn hóa thường mang phương châm biện chứng: học tập cái tốt của
văn hóa bên ngoài, học tập cái hay của văn hóa quá khứ là để xây dựng nền văn
hóa hiện nay mang bản sắc dân tộc. Đồng thời, nền văn hóa mang bản sắc dân tộc
là tiền đề điều kiện, cơ sở để giao lưu thuận lợi với văn hóa nước ngoài.
Tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ
ba (năm 1962), Trung ương đã nhắc nhở các nhà văn hóa, văn nghệ sĩ hiểu
đúng tính chất dân tộc và nhiệm vụ quốc tế của
nền văn hóa nước nhà. Đó là hai vế bổ sung cho nhau, làm phong phú lẫn nhau để
xây dựng nền văn nghệ mới. Những tư tưởng hư vô, tâm lý dân tộc hẹp hòi, chủ
nghĩa sôvanh, sùng bái quá khứ đều xa lạ với quan điểm của Đảng. Mặt khác,
những tư tưởng sùng ngoại, lai căng hoặc bài ngoại đều là những quan điểm thiển
cận. Tính chất dân tộc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là kết tinh những giá trị
Chân - Thiện - Mỹ của dân tộc, là bản lĩnh biết tiếp thu, chọn lọc những tinh
hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa dân tộc.
Vào đầu thập niên 70 của thế kỷ XX,
trong tiểu luận “Mấy vấn đề văn nghệ Việt Nam hiện nay”, Tổng Bí thư Trường
Chinh đặt câu hỏi: “Chúng ta học tập gì ở văn nghệ thế giới?” và trả lời:
“...Chúng ta cũng cần học hỏi văn nghệ tiến bộ và cách mạng của các nước phương
Tây nữa. Chúng ta nghiên cứu cả kỹ thuật của một số trường phái văn nghệ ở các
nước ấy, nhưng nghiên cứu với con mắt phê bình, không thần thánh hóa kỹ thuật
đó, cũng không bắt chước một cách nô lệ, mà nghiên cứu để giúp vào việc sáng
tạo hình thức nghệ thuật dân tộc...”(5).
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đánh dấu
một cột mốc mới trong lịch sử và văn hóa dân tộc. Đảng đã khởi xướng đường lối
đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Đó là một luồng gió mới làm
thoáng mát và sống động mọi lĩnh vực đời sống. Thành tựu lớn nhất của giai đoạn
này là giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục mở rộng giao lưu văn hóa.
Từ sau Đại hội VI, các nhiệm kỳ Đại hội
của Đảng đã bổ sung và phát triển đường lối đổi mới, trong đó có lĩnh vực giao
lưu văn hóa, với những quan điểm cơ bản như: xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì
con người, do con người; kế thừa và phát huy truyền thống văn
hóa tốt đẹp của các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân
loại; chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp dân
tộc và những giá trị cao quý của loài người; nhấn mạnh những nội dung: nhân
đạo, dân chủ, tiến bộ trong đời sống tinh thần xã hội và tính chất nền văn hóa
mới; chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa...
Với nhiều tiền đề lịch sử cho phép,
với độ lùi thời gian, kinh nghiệm thực tiễn, trình độ lý luận và bản thân sự
phát triển nội lực văn hóa trong tình hình diễn biến của thế giới hiện đại,
năm 1998, Đảng ta đã ban Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây
là văn hóa triết học có sức khái quát cao, đề cập tương đối toàn diện các
bình diện văn hóa, khai thác trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, trước hết là
đội ngũ trí thức nhằm mục tiêu chiến lược: Văn hóa là mục tiêu, vừa là động
lực của phát triển, vừa là nền tảng tinh thần xã hội. |
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII
về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc đã đi vào đời sống vào hợp lòng dân. Về vị thế, vai trò,
tác dụng của văn hóa và giao lưu văn hóa của Nghị quyết này được các nhiệm kỳ
Đại hội Đảng sau đó tiếp thu một cách cơ bản và làm sáng rõ hơn trong điều kiện
lịch sử mới của thế kỷ XXI. Đại hội IX của Đảng ghi rõ: “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập - tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng làm bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế...; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học
và công nghiệp...; tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa
nhân loại. Đấu tranh chống sự xâm nhập của văn hóa độc hại”(6).
Kế thừa nội dung trong các nghị quyết,
văn kiện, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Văn kiện Đại hội XII
về xây dựng, phát triển văn hóa, con người, trong Văn kiện Đại hội XIII, quan
điểm của Đảng về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam được trình bày trong mối quan hệ thống nhất, biện chứng khi khẳng định:
“Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế”(7).
NHỮNG
NGUYÊN LÝ VÀ NỘI DUNG GIAO LƯU VĂN HÓA
Một
là, tiếp
thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ của các dân tộc khác.
Bàn về mối quan hệ giữa các dân tộc và
vai trò các thành tựu tinh thần của dân tộc, Mác và Ăngghen đã viết: “Những
thành quả hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành sở hữu chung của tất cả
các dân tộc khác. Tính chất hẹp hòi, phiến diện dân tộc ngày càng không tồn tại
được nữa; và từ những nền văn học dân tộc và địa phương muôn hình muôn vẻ, đang
nảy nở một nền văn học chung toàn thế giới... Một nước có thể và phải học hỏi
kinh nghiệm lịch sử của một nước khác”.
Trong quá trình tiếp thu cái bên ngoài,
đặc biệt là trong bối cảnh, tình hình hiện nay, chúng ta phải tiếp tục đẩy
mạnh, bền bỉ tuyên truyền, giáo dục, nhất là trong thế hệ trẻ, đề phòng tâm lý
sính ngoại, phục ngoại vô cớ; mặt khác, cũng tránh tâm lý khép kín, coi thường
những giá trị các dân tộc. Thái độ đúng đắn nhất để ứng xử mối quan hệ
giữa cái bên ngoài và cái bên trong là: Càng
đi vào dân tộc sâu sắc bao nhiêu, thì nhanh chóng hiểu biết, dễ tiếp nhận cái
hay, cái đẹp của thế giới bấy nhiêu. Thật đúng chỗ khi dẫn ra đây kiến giải của
Hồ Chí Minh: “Văn hóa của các dân tộc khác cần phải nghiên cứu toàn diện, chỉ
có trong trường hợp đó mới có thể tiếp thu được nhiều hơn cho văn hóa của
mình”(8); “Mỗi một dân tộc cần phải chăm lo đặc tính dân tộc trong nghệ
thuật”(9); “Càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, càng phải coi trọng những
truyền thống tốt đẹp của cha ông”(10).
Hai là, giới thiệu lịch sử, đất nước,
con người, văn hóa Việt Nam với thế giới.
Các giá trị văn hóa truyền thống của nước ta có rất nhiều. Ở đây
chỉ xin nêu 3 bình diện nổi trội, đó là: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; nền văn
hóa Việt Nam và con người Việt Nam. Trong đó, chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự
cường dân tộc là tài sản vô giá của truyền thống văn hóa Việt Nam. Nói dân tộc
ta có sức sống trường tồn, không bị đồng hóa trước âm mưu thôn tính của kẻ thù,
đồng lòng đứng lên chống ngoại xâm là nói sức mạnh của dân, trách nhiệm của dân
và lợi ích của dân. Thời nào cũng vậy, lúc bình cũng như lúc biến, các bậc minh quân đều lấy dân làm gốc, lấy nhân nghĩa làm đức, lấy hòa hiếu để ứng xử bang
giao; đối nội thì thuận lòng người, đối ngoại thì mềm dẻo, linh hoạt. Truyền
thống hòa hiếu là cơ sở chính cho chính sách ngoại giao đa phương để hội nhập với
thế giới trong thời đại Hồ Chí Minh. Tổng Bí thư Lê Duẩn có lần nói: “Phải có
một nghìn năm văn hóa trước đó, mới có chuyện Hai Bà Trưng thắng quân Hán...
Dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam, không bị đồng hóa là vì sao? Vì sớm có
nền văn hóa của mình mà cao nhất là chủ nghĩa yêu nước...”(11).
Người Việt Nam với những tố chất tích cực như tính cộng đồng cao,
ý thức đồng thuận, tính cần cù, cường độ lao động hóa, truyền thống hiếu
học.v.v.. đã và sẽ làm được nhiều việc phi thường. Nhưng, trong bối cảnh hội
nhập ngày càng sâu rộng, cần khắc phục một số nhược điểm: người Việt Nam thông
minh, nhưng mới ở từng cá nhân, chưa đến độ thông minh cộng đồng, người có trí
tuệ lỗi lạc rất hiếm; não bộ người Việt Nam phát triển, nhưng não sáng tạo ít hơn não thích ứng, thói quen bắt
chước rất nhanh.v.v.. Nguyên nhân vì sao? Cho đến nay, về cơ bản, tinh thần cốt
lõi của văn hóa Việt Nam vẫn nặng về tư tưởng nông dân, tâm lý tiểu nông, tầm
nhìn hạn hẹp, chưa thật sự tôn trọng quyền cá nhân, chấp nhận cá tính, ý thức
dân chủ chưa cao, mặc dù Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp quy của Nhà nước
đã ngăn ngừa, phê phán không phải một lần.
Ba là, ngăn ngừa và đấu tranh chống
sự xâm nhập các sản phẩm văn hóa độc hại.
Những yếu tố độc hại, suy đồi của các sản phẩm văn hóa ngoại lai
(dù có chủ ý của các thế lực thù địch hay “vô tư” “vô tâm” du nhập) đã và đang
như những đợt sóng ngầm va đập âm ỉ vào bến bờ của nhiều nước đang phát triển
như Việt Nam. Nó có những đặc điểm sau: truyền bá phương châm tiêu dùng, lối
sống thực dụng, trước hết là lớp trẻ; dùng các hình thức từ thiện, du lịch, tôn
giáo để đạt mục đích chính trị; tuyên truyền sùng bái văn hóa phương Tây - coi
đó là mô hình chuẩn; tổ chức và bảo trợ cho một số trí thức, văn nghệ sĩ, biến
họ thành những “cái loa”, “chất men” phản kháng, chống sự nghiệp đổi mới của
ta. Những chiến dịch ồn ào về đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, “chuyển lửa
về quê hương” đã được thay thế bằng “bàn tay bọc nhung” nắm lấy hoạt động từ
thiện, du lịch, “giao lưu văn hóa” giả hiệu để giương cao những tuyên ngôn,
tuyên cáo về nhân quyền, tự do, dân chủ với mục đích chính trị đen tối.
Bốn là, giao lưu văn hóa trong thời
kỳ hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH), cần coi trọng
hàng đầu các quy luật đặc thù sau: 1) Xây dựng con người Việt Nam phát triển cao về trí tuệ, phong phú
về tinh thần, trong sáng về đạo đức, cường tráng về thể chất. Con người không
phải là phương tiện của quá trình CNH-HĐH mà là trung tâm, là động lực và mục
tiêu của phát triển; 2) Xây dựng môi sinh văn hóa, tức là “thiên nhiên thứ hai” do con người
xây dựng trong quá trình CNH-HĐH và đô thị hóa; 3) Đảm bảo điều kiện văn hóa, tức là chính
sách, thể chế, pháp lý cần và đủ cho hoạt động văn hóa và xã hội hóa văn hóa;
4) Phát triển, nâng tầm về “chất” đội ngũ quản lý văn hóa.
*
* *
Giao lưu văn hóa là sự đối thoại giữa các nền văn hóa nhiều khi
đóng vai trò quan trọng, thậm chí quyết định cho những cuộc đàm phán về biên
giới, lãnh thổ, xung đột sắc tộc. Quá trình giao lưu văn hóa cần tính đến giá trị chung, giá trị nhân loại, đồng thời
thừa nhận cái khác biệt của
người, để các dân tộc khác thừa nhận cái khác biệt của ta. Lo sợ về “cơn lốc toàn cầu hóa”
là có thật, nhưng việc dân chủ hóa công nghệ, dân chủ hóa tài chính, dân chủ
hóa thông tin là không thể không chấp nhận. Vấn đề còn lại là bản sắc, bản
lĩnh, đạo lý dân tộc./.
GS. Viện sĩ Hồ Sĩ Vịnh
Giao lưu văn hóa là quan điểm nhất quán, cởi mở và có hệ thống của Đảng ta điều đó là không thể phủ nhận!
Trả lờiXóa