LÀM
RÕ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ QUÁ TRÌNH
CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
Là
nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) như
Việt Nam, việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH phải thực hiện thông
qua quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Mỗi bước tiến
của quá trình CNH, HĐH là một bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
CNXH, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa (XHCN), góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho người dân.
Bản
thân đường lối CNH, HĐH không phải dập khuôn hay mô phỏng của một quốc gia cụ
thể nào, mà được hình thành và xây dựng nên từ chính đặc thù, điều kiện Việt
Nam gắn liền với sự phát triển của thành tựu khoa học và công nghệ thế giới
cũng như gắn với chuyển biến trong môi trường kinh doanh khu vực và toàn cầu.
Trong tiến trình CNH, HĐH Việt Nam luôn cập nhật và ngày càng hoàn thiện mục
tiêu, nội dung và các giải pháp để thực hiện. Ở nước ta, quá trình CNH gắn chặt
với quá trình HĐH. Trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nên nguồn
lực, động lực cho tăng trưởng chính là công nghệ và đổi mới sáng tạo, và “Khoa
học và công nghệ là động lực của quá trình CNH,HĐH”.
Thực
tiễn CNH, HĐH cho thấy có những quốc gia thành công và có cả những quốc gia thất
bại. Vấn đề là ở xác định đúng đường lối CNH, tránh lệ thuộc bên ngoài. Nội lực
là chính, tận dụng ngoại lực, biến ngoại lực thành nội lực. Đây cũng là cách thức
mà Việt Nam đã xác định và đang từng bước hiện thực hóa CNH, HĐH. Tuy quá trình
CNH, HĐH ở Việt Nam còn có hạn chế, song, phải khách quan thấy rằng, quá trình
CNH, HĐH của Việt Nam đã có những kết quả tích cực, không thể phủ nhận, góp phần
rất quan trọng trong công cuộc xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho xã hội mới
cũng như góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Và
chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng đến năm 2025, Việt Nam sẽ trở thành nước
đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung
bình thấp, đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập
trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Rõ
ràng là, CNH, HĐH của Việt Nam không hề mơ hồ, không có mục tiêu, hay sai lầm
mà Đảng ta đặt ra yêu cầu với tiến trình CNH, HĐH là cùng với chuyển biến về mặt
kinh tế - kỹ thuật phải tạo ra và đồng thời là chuyển biến về mặt kinh tế - xã
hội, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội
ngay trong mỗi bước phát triển và trong từng chính sách. Các nghị quyết đại hội
Đảng qua các nhiệm kỳ đều từng bước bổ sung, hoàn chỉnh và ngày càng làm rõ nội
hàm của CNH, HĐH ở Việt Nam; Quyết định số 1043/QĐ-TTg ngày 1-7-2013 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp
tác Việt Nam – Nhật Bản hướng đến 2020 và tầm nhìn 2030, và ngày 22-3-2018, Bộ
chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về định hướng xây dựng chính sách
phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định
rõ mục tiêu của CNH, HĐH đến 2030 và tầm nhìn 2045. Đây là những sản phẩm kết
tinh trí tuệ của nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu Việt Nam, sự hợp tác của các
chuyên gia, các nhà khoa học quốc tế. Vì thế cũng không thể cho rằng CNH, HĐH ở
Việt Nam là mơ hồ, không có mục tiêu.
Quá
trình CNH,HĐH nhà nước cũng như thành phần kinh tế nhà nước có vai trò vô cùng
quan trọng. Nhà nước không chỉ thực hiện vai trò quản lý, xây dựng hệ thống thể
chế phù hợp, khuyến khích các thành phần kinh tế, khơi dậy các nguồn lực, mà
còn trực tiếp đầu tư kinh doanh mang tính dẫn dắt và đầu tư vào lĩnh vực mà
doanh nghiệp tư nhân chưa muốn đầu tư để tạo môi trường thuận lợi chung cho hoạt
động kinh doanh của xã hội. Quá trình CNH,HĐH đất nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là một yêu cầu tất
yếu khách quan. KTNN là lực lượng vật chất giúp nhà nước định hướng XHCN nền
kinh tế quốc dân; là sức mạnh để nhà nước thông qua các cơ chế chính sách điều
tiết nền kinh tế; là nguồn lực để nhà nước đầu tư tạo môi trường phát triển
chung cho nền kinh tế; KTNN giữ vai trò chủ đạo không có nghĩa là phân biệt, đối
xử hay hạn chế các thành phần kinh tế khác, mà, ngược lại, khuyến khích các
thành phần kinh tế ngoài nhà nước (tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài…) có tác động
tích cực đến sự phát triển của KTNN, để KTNN thực hiện tốt hơn vai trò chủ đạo
của mình.
Như
vậy, quá trình CNH,HĐH ở nước ta hoàn toàn có mục tiêu, định hướng, giải pháp cụ
thể, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đây là nhiệm vụ trung
tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Vấn đề là với sự quyết tâm, đồng
lòng của cả Hệ thống chính trị, của toàn dân chắc chắn những mục tiêu được Đại
hội XIII của Đảng đề ra trong quá trình CNH,HĐH sẽ thắng lợi, đưa đất nước sớm
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội./.
Nhận xét
Đăng nhận xét