KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN CHỦ TRƯƠNG “KHƠI DẬY KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC” CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đại hội XIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam thành công tốt đẹp là dấu son trong lịch sử vẻ vang của Đảng
ta, dân tộc ta. Đại hội lần đầu tiên đề cập đến chủ trương “khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, thể hiện sự phát triển về tư duy lý
luận của Đảng. Cụm từ này xuất hiện đậm đặc trong chủ đề của Đại hội; quan điểm
chỉ đạo tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng; mục tiêu tổng quát,
nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng;
quan điểm phát triển, mục tiêu chiến lược, đột phá chiến lược giai đoạn 2021 -
2030… Đây là một điểm mới, điểm nhấn quan trọng về sức mạnh nội sinh và phương
thức phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Do vậy, không thế lực nào có thể
xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc” của Đảng và dân tộc ta. Bảo vệ, khẳng định, lan toả và hiện
thực hoá chủ trương này là vấn đề vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, vừa có ý
nghĩa cấp thiết hiện nay.
1. Nhận diện các luận
điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước”
của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ trương “khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đại hội XIII thể hiện tầm
nhìn chiến lược và quyết tâm chính trị rất cao của Đảng ta với mục tiêu đến năm
2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Tuy nhiên, các phần tử
cơ hội chính trị, phản động, các thế lực thù địch vẫn ra sức xuyên tạc, bóp
méo, phủ nhận chủ trương quan trọng này của Đảng ta. Chúng cho rằng: đó là một
“khẩu hiệu trống rỗng”, “nặng tính duy tâm, siêu hình”. Chúng lý sự rằng, “khát
vọng” là yếu tố tinh thần; trong khi Đảng Cộng sản Việt Nam nhiều lần đề cập và
nhấn mạnh đến thành tố “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc” trong Văn kiện Đại hội XIII thì Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyệt đối hóa
yếu tố tinh thần cho sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, nên đây là một
quan điểm duy tâm, siêu hình; đi ngược lại lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Chúng cũng “gào lên” cho chủ trương đó là “phi thực tế, phản khoa học”, là
biểu hiện “chủ quan, nóng vội, duy ý chí” của Đảng độc quyền. Chúng còn mạnh
miệng bảo rằng chủ trương đó chỉ là “ảo vọng viển vông, hão huyền”, “không có
tính khả thi”; Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ “đánh trống bỏ dùi”, không có kế
hoạch và biện pháp triển khai cụ thể, hữu hiệu…
Trong khi đó, từ đầu
nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức
tạp, chưa có tiền lệ. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay
gắt; xung đột quân sự Nga - Ukraine kéo dài; lạm phát tăng cao, hậu quả của đại
dịch Covid-19 dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu; rủi ro tài chính,
tiền tệ, mất an ninh năng lượng, an ninh lương thực đang hiện hữu… Ở trong
nước, nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài cần được giải quyết; trong khi đó, dịch
bệnh, thiên tai diễn biến phức tạp, gây nhiều thiệt hại cho sản xuất kinh doanh
và đời sống của nhân dân.
Lợi dụng tình hình đó,
các thế lực thù địch càng điên cuồng chống phá chủ trương “khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đảng ta. Chúng lớn tiếng cho
rằng, chủ trương này chỉ là “cái bánh vẽ”, không thể thành hiện thực… hòng đánh
lạc hướng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân ta; kích thích tâm lý bi quan, mơ
hồ, chán chường của một bộ phận người dân nhẹ dạ cả tin; kìm hãm sự phát triển
kinh tế - xã hội và hạ thấp uy tín của Đảng trước nhân dân, uy tín của nước ta
trên trường quốc tế.
2. Luận cứ phản bác các
luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước” của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước những luận điệu
xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc”, mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân cần tỉnh táo, cảnh giác cao
và nhận rõ đó là những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm, thâm độc, hòng chống phá vai
trò lãnh đạo của Đảng, làm nhụt chí quyết tâm của toàn dân tộc trên con đường
phát triển giàu mạnh, phồn vinh. Chúng ta khẳng định: chủ trương “khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đảng ta là đúng đắn, khoa
học, khả thi với những luận cứ xác đáng, thuyết phục.
Thứ nhất, khát vọng phát
triển đất nước có vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt
Các nhà kinh điển mác -
xít đã khẳng định: vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất quyết định ý thức
song ý thức có tính độc lập tương đối với vật chất, có tính năng động, sáng tạo
nên tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan. C. Mác
cho rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán
của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất;
nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào
quần chúng” . V.I. Lênin chỉ rõ: “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế
giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan” . Đặc biệt, ý thức, tư
tưởng hay tinh thần tiến bộ, khoa học, cách mạng một khi được giáo dục, khơi
dậy và phát huy đúng cách ở mỗi cá nhân sẽ trở thành sức mạnh to lớn trong cải
tạo xã hội. Để hiện thực hóa sức mạnh ấy, đòi hỏi phải tiến hành công tác tuyên
truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, giác ngộ và tổ chức cho quần chúng
tham gia các phong trào cách mạng, các hoạt động xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý... Bổn phận của chúng
ta là... phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh
thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước,
công việc kháng chiến” .
Đối với Việt Nam, khát vọng phát triển đất nước thật sự là sức mạnh nội sinh phi thường, cội nguồn tạo nên những kỳ tích trong suốt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Thời trung đại, Việt Nam đánh thắng tất cả các cuộc chiến tranh xâm lược của phong kiến phương Bắc, giữ vững nền độc lập dân tộc, bắt nguồn từ khát vọng về độc lập, chủ quyền quốc gia. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đập tan ách áp bức, bóc lột của đế quốc, thực dân, phong kiến; đánh thắng các thế lực xâm lược hùng mạnh, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những chiến công lừng lẫy đó bắt nguồn từ khát vọng mãnh liệt của toàn dân tộc: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và khát vọng này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát thành chân lý thời đại. Hiện nay, khát vọng phát triển giàu mạnh, hùng cường là một động lực mới thúc đẩy dân tộc ta tiến lên, khắc phục đói nghèo, lạc hậu, vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” và “nguy cơ tụt hậu về kinh tế”.
Thứ hai, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước trên cơ sở cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín đất nước.
Khát vọng phát triển đất
nước bắt nguồn từ niềm tin vững chắc vào cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của
đất nước sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới. “Đất nước ta chưa bao giờ
có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự
hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con
đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước” .
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được tiến hành toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, “năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng được nâng lên”, “hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được củng cố và tăng cường”. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tiến hành quyết liệt, đạt được những kết quả quan trọng; tuyệt đại đa số ý kiến người dân (93%) tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng .
Sau gần 40 năm đổi mới,
đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế
phát triển; chính trị - xã hội ổn định; văn hóa - xã hội có bước phát triển;
quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường. Nếu năm 1988, thu nhập bình quân
đầu người của nước ta mới chỉ đạt 86 USD/người/năm thì đến năm 2020 Việt Nam đã
trở thành một quốc gia có quy mô dân số gần 100 triệu người với mức thu nhập
bình quân gần 2.800 USD/người. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi
vào chiều sâu; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không
ngừng được nâng cao. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc được giữ vững.
Thứ ba, chủ trương “khơi
dậy khát vọng phát triển đất nước” là “ý Đảng” hợp “lòng dân”
Quá trình chuẩn bị các
văn kiện trình Đại hội XIII, các Tiểu ban đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
ở Trung ương và địa phương tổ chức gần 60 hội nghị, hội thảo, toạ đàm; thành
lập 50 đoàn đi khảo sát thực tế, làm việc, xin ý kiến các đồng chí nguyên lãnh
đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, tham vấn ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học;
tổ chức tọa đàm với một số tổ chức quốc tế, 02 đoàn đi khảo sát, nghiên cứu
kinh nghiệm ở nước ngoài. Các Tiểu ban đã tiến hành 20 phiên họp để thảo luận,
thông qua Đề cương và các dự thảo văn kiện. Bộ Chính trị đã họp nhiều lần để
cho ý kiến hoàn thiện Đề cương và các dự thảo văn kiện trình xin ý kiến Ban
Chấp hành Trung ương tại các Hội nghị Trung ương 10, 11, 14 và 15. Các dự thảo
Báo cáo đã được chỉnh lý, sửa chữa nhiều lần và được gửi xin ý kiến rộng rãi
của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiều
tổ chức, cơ quan, đoàn thể... Bộ Chính trị đã quyết định công bố công khai toàn
văn các dự thảo Báo cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để lắng nghe ý
kiến của các tầng lớp nhân dân. Đã có hàng triệu lượt ý kiến đóng góp vào dự
thảo các văn kiện và được tổng hợp gửi về Trung ương; các ý kiến đóng góp được
tổng hợp lại thành 1.410 trang giấy A4.
Văn kiện được đánh giá có
quá trình chuẩn bị “rất công phu, chu đáo, bài bản, qua nhiều lần, nhiều vòng,
từng bước hoàn thiện, có nhiều đổi mới quan trọng về nội dung và phương pháp
tiến hành. Quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và
thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển, trên cơ sở
phát huy dân chủ rộng rãi, dự thảo các văn kiện đã thực sự là sản phẩm kết tinh
trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, thể hiện rõ sự thống nhất giữa
“ý Đảng, lòng Dân”, hòa quyện cùng quyết tâm và ý chí phát triển của dân tộc” .
Các ý kiến, đề xuất tâm huyết, trách nhiệm, kết tinh trí tuệ, ý chí và sức sáng
tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, mong muốn đất nước ta ngày càng
phát triển phồn vinh; nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc; dân tộc ta ngày càng
cường thịnh, trường tồn. Tất cả những điều đó chứng minh tính khoa học, khách
quan của những đánh giá, các mục tiêu, nhiệm vụ trong Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng.
Thứ tư, khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước được thể chế hoá thành những mục tiêu, tầm nhìn “trăm
năm” và những kế hoạch, chương trình cụ thể.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng chỉ rõ: “Nói Đại hội XIII không phải chỉ cho đến năm 2026 (giai đoạn 2021
- 2026) mà phải có tầm nhìn chiến lược dài hơn, nhìn lại cả quá khứ và hướng
tới tương lai” . Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc đã được
Đảng, Nhà nước cụ thể hoá, thể chế hóa thành các mục tiêu, chỉ tiêu, chương
trình, kế hoạch cụ thể, với lộ trình và bước đi phù hợp với điều kiện thực tế.
Đây là một trong những phương cách khả thi nhất để góp phần hiện thực hóa khát
vọng này.
Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng đã xác định những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước, những mục
tiêu, tầm nhìn 100 năm thành lập Đảng và 100 năm thành lập nước: “Đến năm 2030:
Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến
năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao” .
Đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc là một quá trình cải biến xã hội toàn diện và sâu sắc. Để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp vĩ đại này, cần huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại với những kế hoạch, biện pháp cụ thể của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng trong từng giai đoạn.
Thứ năm, khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước bước đầu được minh chứng với kết quả sinh động của
nước ta từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay
Hơn nửa nhiệm kỳ Đại hội
XIII của Đảng đã đi qua để lại những dấu ấn nổi bật, trong bối cảnh tình hình
trong nước và thế giới có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường,
nhất là ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19, khó khăn về kinh tế toàn cầu,
diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,…
song toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã chủ động, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu,
hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, đạt được nhiều kết
quả quan trọng, khá toàn diện.
Việt Nam đã nỗ lực duy
trì, phục hồi và thúc đẩy phát triển kinh tế với nhiều điểm sáng tích cực. Năm
2021, tăng trưởng kinh tế đạt 2,58%; thu ngân sách tăng 16,4%; tổng kim ngạch
xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt mức kỷ lục 668,5 tỷ USD (đưa Việt Nam trở thành 1
trong 20 nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới về thương mại). Tổng vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội tương đương 34,4% GDP, tăng 1,2% so với năm 2020. An
ninh lương thực được bảo đảm; xuất khẩu nông sản đạt 48,6 tỷ USD .
Năm 2022, tăng trưởng GDP
đạt 8,02%, mức cao nhất trong hơn 10 năm qua; các cân đối lớn của nền kinh tế
được bảo đảm. Thu ngân sách vượt 26,4% dự toán, tăng 13,8% so với năm 2021.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 732,5 tỷ USD. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn
xã hội đạt trên 3,2 triệu tỷ đồng, tăng 11,2%. Nông nghiệp phát triển ổn định;
xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt kỷ lục trên 53,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu
gạo 7,12 triệu tấn. Sản xuất công nghiệp tăng 7,69%. Các ngành dịch vụ phục hồi
mạnh mẽ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng
19,8% .
Năm 2023, kinh tế
Việt Nam tiếp tục khởi sắc với 2 kịch bản mà Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung ương
(CIEM) đưa ra. Ở kịch bản 1, tăng trưởng kinh tế nước ta năm 2023 có thể đạt
mức 6,47%; xuất khẩu tăng 7,21% và thặng dư thương mại đạt 5,64 tỷ USD; lạm
phát sẽ ở mức 4,08%. Ở kịch bản 2, tăng trưởng kinh tế nước ta năm 2023 tích
cực hơn, lên mức 6,83%; xuất khẩu tăng 8,43% và thặng dư thương mại đạt 8,15 tỷ
USD; lạm phát sẽ được kiểm soát ở mức 3,69% .
3. Những giải pháp “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong thời gian tới
Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng yêu cầu: “Luôn phải có các chính sách, biện pháp phù hợp để khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” . Để khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước của các tầng lớp nhân dân trong thời gian tới, cần tiến hành
đồng bộ, quyết liệt các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, đẩy mạnh tuyên
truyền, giáo dục, “truyền cảm hứng” về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh
trong các tầng lớp nhân dân.
Tiếp tục đổi mới công tác
giáo dục chính trị tư tưởng; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để cán bộ, đảng viên, nhân
dân vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng và tương lai tươi sáng của dân tộc. Đổi
mới học tập lý luận chính trị, chú trọng giáo dục lòng yêu nước, ý chí tự lực,
tự cường, định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân trước các vấn đề
thời sự chính trị của thế giới và trong nước. Cần tăng cường tuyên truyền, giác
ngộ, “truyền cảm hứng” tích cực về khát vọng phát triển đất nước sâu rộng trong
các tầng lớp nhân dân, với sự sinh động, phong phú, thiết thực và hiệu quả bằng
các hình thức, phương pháp đa dạng, phong phú, hấp dẫn.
Tập trung khơi dậy “tinh
thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết,
đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc . Làm cho
khát vọng phát triển đất nước trở thành niềm vinh dự, tự hào, phương châm, lẽ
sống và hành động, là mệnh lệnh từ trái tim của mỗi người dân Việt Nam, nhất là
thanh niên, học sinh, sinh viên. Coi trọng giáo dục thế hệ trẻ về “lý tưởng
cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi
dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối
với đất nước, với xã hội” .
Đặc biệt, dưới góc độ
kinh tế, khát vọng phát triển đất nước được thể hiện chủ yếu ở tinh thần vươn
lên, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, chậm phát triển. Mặc dù công cuộc đổi
mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, song đất nước ta
vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Vì vậy, khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước hiện nay chính là khơi dậy ý thức lao động hăng say, sáng tạo,
nỗ lực vươn lên làm giàu chính đáng, hợp pháp của mỗi người dân Việt Nam; nhất
là sự cố gắng phấn đấu của thanh niên nước nhà trong học tập, lao động sáng
tạo, khởi nghiệp, lập thân, lập nghiệp.
Hai là, xây dựng, hoàn
thiện đồng bộ các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì Tổ quốc
của mọi người dân Việt Nam.
Đảng, Nhà nước cần chủ
động tạo lập các yếu tố, điều kiện và môi trường xã hội thuận lợi để khơi dậy
và hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước ở mỗi người dân Việt Nam. Phải
“xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của
mọi người dân Việt Nam” .
Cần mở rộng dân chủ trong
Đảng và toàn xã hội, coi trọng “ban hành đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm
chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong
chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” . Phát huy tính tích cực, chủ động, năng động, sáng tạo, quyền và trách
nhiệm của nhân dân trong tham gia vào các công việc chung của đất nước theo
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng”. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo lập và phát huy sức mạnh
đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện cải cách mang
tính đột phá về thể chế, cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm gắn kết chặt chẽ
với tầm nhìn chiến lược phát triển dài hạn. Đảm bảo kết hợp giữa quản lý, kiểm
soát bằng các quyết định hành chính với quản trị hiện đại, phục vụ nhân dân,
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; xây dựng và thực thi có hiệu quả
các cơ chế, chính sách chuyển đổi sang mô hình phát triển theo chiều sâu, thúc
đẩy khởi nghiệp dựa trên cơ sở đổi mới sáng tạo và ứng dụng khoa học, công nghệ
tiên tiến.
Tạo lập môi trường, chính
sách thuận lợi, minh bạch bảo đảm phát triển văn hóa, con người, an sinh xã hội
và bảo vệ môi trường. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các chính sách an sinh xã
hội, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội; chính sách việc làm, chính sách tiền
lương, nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho các đối tượng;
chính sách xóa nghèo bền vững; giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế -
xã hội với bảo vệ môi trường.
Ba là, tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng và sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị trong khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước.
Sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định việc thực hiện thắng lợi khát vọng, mục
tiêu, tầm nhìn phát triển đất nước trong thời gian tới. Do vậy, phải “xây dựng,
chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ” ;
“giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân” ; phát huy tính tiên phong, gương mẫu của
cán bộ, đảng viên trong các phong trào hành động cách mạng, phát triển kinh tế
- xã hội, vươn lên làm giàu chính đáng. Đảng ta cần nắm vững bản chất cách
mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn
đất nước, xu thế thời đại để hoạch định đường lối, chủ trương đúng đắn. Xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là người đứng đầu đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, “dám nghĩ, dám làm, dám dấn thân, dám chịu trách
nhiệm, có khát vọng phát triển”. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Xây dựng, hoàn thiện “Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân
dân do Đảng lãnh đạo” , bảo đảm đồng bộ cả lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư
pháp, chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương; nêu cao sứ mệnh phục vụ
nhân dân; làm rõ mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Tăng cường kiểm
soát quyền lực Nhà nước, thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc
về nhân dân. Các cơ quan nhà nước cần ban hành hệ thống pháp luật, chính sách
đồng bộ nhằm tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân, kiều bào ta ở nước ngoài
đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước.
Tích cực đổi mới hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm có
trọng tâm, trọng điểm, thực chất nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân.
Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân theo
hướng thiết thực, hướng về cơ sở, chú ý những nhân tố mới, những cách làm sáng
tạo trong sản xuất, kinh doanh, vươn lên làm giàu chính đáng. Nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác giám sát và phản biện xã hội; hoạt động tiếp xúc cử
tri, tiếp dân, đối thoại; giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân ngay từ
cơ sở. Đấu tranh với các biểu hiện thờ ơ, vô cảm, cửa quyền, hách dịch, nhũng
nhiễu đối với nhân dân.
Nhận xét
Đăng nhận xét