SỰ PHI LÝ CỦA LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC "THƠ CÁCH MẠNG KHÁNG CHIẾN CHỈ LÀ THƠ MINH HỌA CHÍNH TRỊ"
Thơ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1946-1975) đã thể hiện niềm tự hào dân
tộc, tự hào về truyền thống vẻ vang của ông cha ta trong suốt hàng nghìn năm
dựng nước và giữ nước. Đó là những tác phẩm bám sát lịch sử chiến đấu hào hùng
của quân dân ta, là bản anh hùng ca bất diệt. Tuy nhiên, vẫn có những người cố
ý phủ nhận, xuyên tạc giá trị thơ cách mạng kháng chiến thế kỷ 20 và cho rằng
đó chỉ là “thơ minh họa chính trị”. Luận điệu đó vừa phi lý, vừa phi nghĩa nên
cần phải phê phán, bác bỏ.
Sự phi lý của những luận điệu xuyên tạc thơ thời kháng chiến
Thời gian qua, trên nhiều trang mạng, diễn đàn, các thế lực thù
địch, cơ hội chính trị và một số “nhà nghiên cứu” đã có nhiều ý kiến xuyên tạc, phủ nhận giá trị thơ cách mạng Việt Nam
trong thời kỳ chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, làm tổn thương cả một thế hệ nhà thơ đã đóng góp tâm huyết, tài
năng cho sự phát triển của nền văn học nước nhà, nhất là xúc phạm đến những nhà
văn, nhà thơ đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Theo họ, dòng thơ này ra đời “theo sự chỉ đạo, đặt hàng của Đảng
mà không phải viết do cảm xúc, do tình người của nhà văn”; “là thứ thơ cổ động,
không có giá trị gì về nghệ thuật”. Lại có kẻ cho rằng, thơ thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là “quê mùa”, “tỉnh lẻ”, tác phẩm vì thế
“không thể vươn tới cõi thẳm sâu trong thế giới tinh thần mà hầu hết là tả
thực, vội vã, sống sượng, nên ít có tính tư tưởng, sức sống của tác phẩm như
thế cũng èo uột và ngắn ngủi” (!?).
Những ý kiến, lập luận nêu trên vừa không dựa trên thực tiễn đời
sống chiến đấu của quân dân ta trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, vừa
là cái nhìn phiến diện, lệch lạc, hàm chứa mưu đồ xấu xa là phủ nhận những giá
trị của thơ cách mạng kháng chiến thế kỷ 20, sâu xa hơn là phủ nhận toàn bộ giá
trị nền văn học nghệ thuật cách mạng nước nhà.
Thơ cách mạng “vị nhân sinh”, vì sứ mệnh cao cả là giải phóng dân
tộc
Thơ là sự thổ lộ tình cảm sâu sắc được thăng hoa, lắng đọng
qua cảm xúc thẩm mỹ, làm lay động và mang lại cảm xúc cho người đọc. Với chức
năng “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”, thơ chân chính luôn hướng tới cái đẹp
để ca ngợi, nuôi dưỡng, bồi đắp những giá trị chân-thiện-mỹ cho con người. Theo
nhà phê bình văn học Nga V.Belinsky (1811-1848): “Thơ trước hết là cuộc đời,
sau đó mới là nghệ thuật. Phục vụ cuộc sống, phục vụ con người là mục đích lớn
nhất của thơ chân chính”. Lãnh tụ V.I.Lenin cũng cho rằng: “Nghệ thuật thuộc về
nhân dân. Nghệ thuật phải bắt rễ sâu xa trong lòng đông đảo quần chúng lao
động. Nó phải được quần chúng đó hiểu và yêu thích. Nó phải tập hợp được tình
cảm, tư tưởng, ý chí của quần chúng đó, nâng họ lên. Nó phải thức tỉnh những
nghệ sĩ trong quần chúng và phát triển các nghệ sĩ đó”.
Trong lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, mỗi
khi đất nước có giặc ngoại xâm thì cuộc sống, số phận mỗi người dân tất yếu
phải gắn chặt với vận mệnh của đất nước. Trong hoàn cảnh đó, lương tâm và trách
nhiệm đặt ra tiếng nói của mỗi thi sĩ phải hòa chung với tiếng nói chung của
dân tộc, thể hiện tình cảm của quảng đại quần chúng nhân dân lao động, biết đau
chung cùng nỗi đau của người dân nô lệ, biết yêu thương, cảm mến và tôn vinh
với những con người đã xả thân vì nghĩa lớn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Rõ ràng là dân
tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham
gia cách mạng”. Vì vậy, dù có những đặc trưng, đặc thù thế nào đi chăng nữa thì
từ sự nhận thức, phản ánh của mình, nhà thơ vẫn phải nhằm mục đích góp phần vào
sự nghiệp cách mạng của dân tộc, giải quyết những mâu thuẫn, những yêu cầu đặt
ra của thời đại. Do đó, trong thời kỳ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược nước
ta, trước cảnh mất nước lầm than, nhân dân ta “một cổ hai tròng”, đây là “lửa
thử vàng” để xem dòng thơ nào, tác giả nào thực sự “vị nhân sinh”, gắn bó với
vận mệnh dân tộc, đất nước.
Trong những thời khắc trọng đại, yêu cầu nghệ thuật của thơ được
tự giác kết hợp với yêu cầu chính trị, với nhiệm vụ lịch sử của đất nước. Thử
hỏi thời kỳ đó, những tiếng thở dài “Không rên xiết là thơ vô ý nghĩa” hay “Lũ
chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ/ Một đôi người u uất nỗi chơi vơi”
liệu có đại diện cho tiếng nói cả dân tộc không? Chắc chắn là không!
Hiển nhiên rằng, thơ không còn con đường nào khác ngoài con
đường “bay theo đường dân tộc đang bay” và nhà thơ tự nguyện: “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi/ Cùng đổ mồ hôi cùng sôi
giọt máu/ Tôi sống với cuộc đời chiến đấu/ Của triệu người yêu dấu gian lao”
(Xuân Diệu). Lịch sử thời kỳ ấy đặt ra cho mỗi nhà thơ, mỗi bài thơ đều thể
hiện ý thức trách nhiệm với nhân dân, chủ động dùng thơ như một vũ khí tinh
thần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Nhà thơ trước hết phải là một
công dân, đồng thời cũng là một chiến sĩ để những tác phẩm của mình phục vụ tốt
nhất cho mục tiêu đấu tranh giành độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của
nhân dân.
Thơ cách mạng kháng chiến của chúng ta đã làm tròn sứ mệnh vẻ
vang đó. Thế nên, ai đó cho rằng, thơ thời kỳ này không có giá trị là một nhận
định hàm hồ, thiếu nhân văn, xuyên tạc, nếu không muốn nói là thái độ vô ơn bạc
nghĩa, có dụng ý xấu.
Không thể phủ nhận giá trị to lớn, cao đẹp của thơ cách mạng
Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã cuốn
hút đông đảo nhà thơ giàu năng lực sáng tác và đầy tâm huyết tham gia sứ mệnh
giải phóng dân tộc. Thế hệ nhà thơ từ trước cách mạng như Tố Hữu, Xuân Diệu,
Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Anh Thơ...
đã được ánh sáng của Đảng “thay đổi đời tôi, thay đổi thơ tôi” để sáng tác các
tác phẩm thơ phục vụ cách mạng. Thế hệ nhà thơ nối tiếp là Nguyễn Đình Thi,
Quang Dũng, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn... rồi
đến Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Thanh Hải, Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Anh
Ngọc, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Vương Trọng, Hoàng Nhuận
Cầm, Giang Nam, Lâm Thị Mỹ Dạ... Còn có nhiều nhà thơ đã anh dũng hy sinh
quên mình vì nghĩa lớn và tác phẩm của họ đã trở thành bất tử trong dòng chảy
thơ ca cách mạng của dân tộc.
Từ thực tế chiến trường khốc liệt, những câu chuyện cao đẹp,
giàu tính nhân văn, những tấm gương chiến đấu hy sinh anh dũng đã tác động mạnh
đến những tâm lý, tình cảm của mỗi tác giả để họ sáng tạo nên những bài thơ có
giá trị sâu sắc. Sứ mệnh thiêng liêng cao cả của nhà thơ đã hòa vào dòng người
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Khao khát của
nhà thơ là được đến với “biển lớn cuộc đời”. Không có sự hy sinh nào lớn lao,
cao cả hơn sự hy sinh cho đất nước mình, dân tộc mình: “Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu
như máu thịt/ Như mẹ cha ta, như vợ như chồng/ Ôi, Tổ quốc! Nếu cần, ta chết/
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông” (Chế Lan Viên)...
Nghệ thuật của thơ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
đã phát triển mạnh mẽ, đóng góp nhiều thành tựu xuất sắc trong nền văn học Việt
Nam. Ngôn từ của thơ thời kỳ này đã góp phần tạo cho thơ Việt Nam một tâm thế
mới, sức thuyết phục, truyền cảm hứng mạnh mẽ đối với công chúng để thể hiện
tầm vóc cao đẹp của dân tộc và con người Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng bút
pháp tinh tế: “Em là ai? Cô gái hay nàng tiên?” (Tố Hữu); “Cánh tay thần
Phù Đổng sẽ vươn mây?” (Chế Lan Viên). Nhiều nhà thơ đã thổ lộ tình yêu
đôi lứa luôn gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước: “Anh yêu em như yêu đất
nước”, “Em đứng bên đường như quê hương/ Vai áo bạc quàng súng
trường” (Nguyễn Đình Thi); “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình/
Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên Đất
Nước muôn đời...” (Nguyễn Khoa Điềm); “Em chính là quê hương ta đó” (Lê
Anh Xuân)...
Có thể khẳng định rằng, thơ cách mạng trong thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ mang đậm chất sử thi, trữ tình, phản
ánh sâu sắc cuộc sống lao động, chiến đấu hào hùng của quân dân ta. Những cách
tân nghệ thuật được thể hiện trên nhiều bình diện: Từ việc mở rộng hình thức
câu thơ đến sự vận dụng ngôn ngữ thơ một cách linh hoạt, từ những đổi mới phong
phú trong giọng điệu thơ đến việc tìm tòi những kiểu kết cấu mới cho thơ. Nó
vừa kết hợp hài hòa giữa lý tưởng và hiện thực, giữa chất anh hùng ca và tính
trữ tình, giữa truyền thống và tìm tòi sáng tạo của các nhà thơ cách mạng.
Vậy thì sao vẫn có người xuyên tạc “đổi trắng thay đen” để cho
rằng thơ thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là thơ “minh họa chính trị”
được!
Những kẻ xuyên tạc, chống phá đã cố tình lờ đi hay không hiểu
rằng, thời kỳ này, văn học nghệ thuật nói chung, thơ nói riêng đã vận động theo
hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước. Nhà thơ
đồng thời là một chiến sĩ, tác phẩm của họ trở thành vũ khí đắc lực góp phần cổ
vũ cuộc chiến đấu gian khổ, hào hùng của quân dân cả nước. Các tác giả đã gắn
bó với cuộc kháng chiến, được tôi luyện trong lửa đạn và nếm trải những gian
lao, thử thách nơi trận mạc, cho nên, trong giai đoạn này, “chất thép” và “chất
thơ” đã hòa quyện nhuần nhuyễn. Thơ cách mạng đã tới được những khái quát sâu
sắc về đất nước, con người, về hiện tại và tương lai, về dân tộc và thời đại,
về lương tâm, trách nhiệm và lẽ sống.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, trong 30 năm, thơ thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ đã phát triển cả về chất lượng và
số lượng, trên cơ sở sự thống nhất hài hòa giữa nội dung và hình thức, giữa
truyền thống và hiện đại. Nhất quán trong một quan niệm nghệ thuật tích cực,
phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, các nhà thơ không ngừng tìm tòi, sáng tạo,
nhằm tạo dựng một nền thơ xứng đáng với tầm vóc của dân tộc, góp phần vào sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Những đóng góp lớn lao của các nhà thơ chân chính và những giá
trị nhân văn cao cả của thơ cách mạng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc là căn
cứ thực tiễn và minh chứng sinh động để chúng ta phê phán, bác bỏ những luận
điệu xuyên tạc, phủ nhận dòng thơ này.
Đại tá, TS PHẠM QUANG THANH
Người dân Việt Nam phải luôn nêu cao cảnh giác, nhận rõ được âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động.
Trả lờiXóa