NẮM VỮNG NHỮNG VẤN ĐỀ CỐT YẾU TRONG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH
NẮM VỮNG NHỮNG VẤN ĐỀ CỐT YẾU TRONG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC
QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH
Đảng
Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện luôn coi công
tác lý luận là bộ phận quan trọng, là nhân tố hàng đầu cấu thành hoạt động lãnh
đạo của Đảng. Có thể nói sinh mạng của Đảng cũng như sự thành bại của sự nghiệp
cách mạng có liên quan chặt chẽ với hoạt động lý luận của Đảng. Điều này được
minh chứng qua những chặng đường lịch sử vẻ vang của cách mạng nước ta.
Nền
tảng của công tác lý luận của chúng ta là Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Trên cơ sở đó, công tác lý luận còn được tổng kết đúc rút từ thực
tiễn. Chính thực tiễn cùng với sự đổi mới không ngừng trong tư duy lý luận là
điều kiện và cơ sở để công tác lý luận phát triển và những vấn đề lý luận ngày
càng được làm giàu thêm.
Một
vấn đề rất quan trọng cần nhận rõ, lý luận chính trị là bộ môn khoa học luôn
phải đối diện với những quan điểm, luận thuyết trái ngược nên công tác lý luận
có nhiệm vụ là đấu tranh chống các quan điểm sai trái và những tư tưởng lệch
lạc. Lý luận, đặc biệt là lý luận chính trị luôn dựa trên lập trường của một
giai cấp nhất định, và đấu tranh lý luận là một mặt trận quan trọng trong những
cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh lý luận không chỉ xoay quanh vấn đề cốt
lõi nhất của lý luận, mà thường gắn với những vấn đề thực tiễn, nhất là những
biến động của đời sống xã hội. Đại hội XIII của Đảng đã thành công rất tốt đẹp
và đây là dịp các thế lực thù địch tìm mọi âm mưu, thủ đoạn để chống phá những
đường lối, quan điểm của đại hội đề ra.
Cuộc
đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng-lý luận hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh
mới, có nhiều thuận lợi mới và không ít khó khăn, thách thức mới đối với việc
bảo vệ những quan điểm lý luận của đại hội Đảng. Đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự
hào, là động lực, nguồn lực quan trọng để chúng ta vững bước đi lên. Điều đó
làm cho công tác lý luận có một cơ sở thực tế mới, có một “cốt vật chất” vững
chắc để thực hiện những nhiệm vụ của mình.
Tuy
nhiên, tình hình trong nước hiện nay vẫn còn tồn đọng một số vấn đề đáng được
quan tâm giải quyết và cũng là những khó khăn đối với công tác lý luận và đấu
tranh lý luận. Bên cạnh đó, những thách thức đối với công tác lý luận từ bên
ngoài tác động vào Việt Nam cũng không hề nhỏ. Đó là những nghịch lý và những
diễn biến khó lường và khó dự báo của thế giới hiện nay. Ngay cả những giá trị
cao đẹp và đích thực mà nhân loại dày công tạo dựng, vun đắp như hòa bình, độc
lập, chủ quyền, công bằng, tiến bộ xã hội cũng bị những thế lực đế quốc phản
động dùng mọi mưu mô xuyên tạc, chống phá. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, thông
tin về mọi mặt đời sống chính trị-kinh tế-văn hóa-xã hội ở mọi nơi trên thế
giới và trong nước, cả mặt thuận và mặt trái, đều có thể hấp thụ được qua nhiều
cách, nhiều chiều trên nhiều phương diện. Việc nghe, việc nhìn cũng như suy
nghĩ của mỗi người trong điều kiện thông thoáng bên trong, mở cửa, hội nhập với
bên ngoài hôm nay đã khác hôm qua. Tất cả điều đó tác động đến công tác lý luận
nói chung và tác động trực tiếp đến cuộc đấu tranh lý luận nói riêng.
Do đó trong cuộc đấu tranh này, chúng ta phải kế
thừa những cách thức và phương pháp vốn có, đồng thời phải có cách làm đổi mới,
sáng tạo để tìm ra được những luận cứ sắc bén. Điều căn bản nhất là thấy hết
những yêu cầu mới đặt ra đối với cuộc đấu tranh lý luận hiện nay. Những yêu cầu
đó thể hiện trên một số nội dung chính yếu sau:
Một là, trong cuộc đấu tranh lý luận, cần nhận rõ sự
phức tạp trên con đường cách mạng nước ta vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên con đường đó,
chúng ta gặp không ít khó khăn, lực cản. Có những khó khăn do chính bản thân
chúng ta không lường hết, khó khăn nội tại do chủ quan duy ý chí hoặc do bảo
thủ trì trệ dẫn tới sự đình đốn thậm chí vấp ngã. Từ đó dẫn tới sự lúng túng và
thiếu lý lẽ thậm chí bế tắc trong lập luận. Sự kiện ở Liên Xô và Đông Âu-những
nơi mà chủ nghĩa xã hội hiện thực tưởng như rất vững chắc, nhưng đã bị tan rã
một cách nhanh chóng, đã cho ta bài học sâu sắc cả về tính phức tạp của thế
giới đương đại và những trắc trở, khó khăn của con đường đi tới tương lai của
loài người. Vấn đề đặt ra là vận mệnh của chủ nghĩa xã hội sẽ phụ thuộc vào
chính việc nhìn nhận rõ và khắc phục tốt những vướng mắc bên trong của xã hội
xã hội chủ nghĩa, nhất là khi chủ nghĩa xã hội chưa được xây dựng một cách hoàn
hảo.
Phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện toàn
cầu hóa, mở cửa hội nhập quốc tế là những nhiệm vụ tất yếu mà chúng ta đang
tiến hành. Mặc dù chúng ta luôn giữ định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng phát
triển kinh tế thị trường càng mạnh thì tính tự phát của khuynh hướng tư bản chủ
nghĩa cũng sẽ tăng lên. Chúng ta lại đang ở thời kỳ quá độ, trong đó nền kinh
tế và cả xã hội cũng có những vấn đề quá độ đan xen nhau rất khó rạch ròi. Quá
trình mở cửa hội nhập, chủ động làm ăn với các nước tư bản chủ nghĩa lại sử
dụng những giải pháp và cách thức phát triển của chủ nghĩa tư bản để xây dựng
chủ nghĩa xã hội đặt ra nhiều thách thức đối với công tác lý luận và đặc biệt
là công tác đấu tranh về lý luận để bảo vệ những nguyên lý và quan điểm, định
hướng của Đảng ta.
Hai là, phải xuất phát từ tư duy khoa học và sáng
tạo trong cuộc đấu tranh lý luận; để có sức thuyết phục, mọi lý lẽ được sử dụng
phải mang tính khoa học và sáng tạo. Chúng ta thấy rằng, một mặt, lý thuyết về
chủ nghĩa xã hội và xã hội xã hội chủ nghĩa được hình thành một cách khoa học,
có khảo sát, phân tích thấu đáo trên cơ sở vận dụng những quy luật khách quan.
Nhưng mặt khác, đôi khi chúng ta không chú ý hoặc vô tình bỏ qua một vấn đề
quan trọng là những luận thuyết về chủ nghĩa xã hội được xác lập dựa vào những
phương pháp trừu tượng rất cao. Tính trừu tượng cao của chủ nghĩa xã hội khoa
học chính là những nguyên lý chung nhất, mang tính phổ biến nhất có thể áp dụng
cho mọi nơi, mọi nước. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, không thể không tính đến, thậm chí phải hết sức tính đến những
điều kiện đặc thù. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về sự vận dụng một
cách sáng tạo như thế. Trên cơ sở nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa
học, tinh thần biện chứng và nhân đạo của học thuyết Mác-Lênin, Người đã vận
dụng sáng tạo học thuyết đó cùng với việc kế thừa chủ nghĩa yêu nước, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại để đưa ra những tư tưởng
phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Trong khi giải quyết những vấn
đề của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển Chủ nghĩa
Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải
phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa. Tư tưởng Hồ
Chí Minh đã và đang soi đường cho cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi, trở
thành nền tảng tư tưởng bền vững của dân tộc và có sức lan tỏa ra thế giới.
Ba là, trong đấu tranh lý luận không được phiến
diện, không tuyệt đối hóa một chiều và không công thức hóa. Phiến diện và tuyệt
đối hóa sẽ dẫn tới làm mất đi tính khoa học của lý luận và tính phong phú của
thực tế, làm cho lý luận bị ngưng đọng và không đủ uyển chuyển để tìm ra những
luận cứ đấu tranh. Ví như khi luận bàn về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, chúng ta có lúc đánh giá nhìn nhận quá cao tác dụng “mở
đường” của quan hệ sản xuất; lúc khác thì chỉ để ý đến vấn đề lợi ích, đến việc
phát huy các yếu tố của lực lượng sản xuất nên coi nhẹ, thậm chí quên mất việc
quan hệ sản xuất phù hợp một cách chủ động và tích cực đối với lực lượng sản
xuất.
Vấn đề công thức hóa cũng vậy. Khi nói về kết cấu và
bản chất của chủ nghĩa xã hội, đôi khi chúng ta mô tả nó một cách công thức đơn
giản, hời hợt, sơ lược, coi như không có mâu thuẫn; không nhìn thấy hết và
không quan tâm hết đến các hệ thống lợi ích khác nhau của các tầng lớp xã hội.
Tất cả những điều đó đã vô tình hạ thấp vị trí và vai trò của hệ tư tưởng xã
hội chủ nghĩa và trên thực tế sẽ tạo ra những cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước.
Bốn là, đấu tranh lý luận cần lấy căn cứ từ thực
tiễn, quan tâm đến vấn đề của thực tiễn đặt ra. Nếu trong đấu tranh lý luận mà
cứ đi theo công thức định sẵn, không chú ý đến các vấn đề mới nảy sinh trong
kinh tế, không để tâm đến tâm trạng xã hội và tình cảm của nhân dân thì không
thể đủ sức thuyết phục. Một khi công tác tư tưởng, lý luận cứ theo một khuôn
khổ cứng nhắc, không đề cập đến những vấn đề thực tiễn đang nảy sinh vào hoạt
động của mình thì nhất định các tư tưởng lý luận xa lạ sai lệch sẽ xen vào.
Trong những dạng thức tư tưởng dễ xâm nhập vào quần chúng, phải kể đến ý thức
tư tưởng tiểu tư sản. Ý thức tiểu tư sản thường được “tái sinh” từ sự chủ quan
của công tác tư tưởng nói chung và công tác đấu tranh lý luận nói riêng; từ
những vi phạm nguyên tắc xã hội chủ nghĩa trong sản xuất, phân phối và trong cả
sinh hoạt đời sống đã động chạm đến lợi ích vật chất, quyền lợi của quần chúng
lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mở đầu cho cuộc đấu tranh của nhân dân
các nước thuộc địa tự giải phóng khỏi ách kìm kẹp của chủ nghĩa thực dân, đứng
lên giành chính quyền, xây dựng xã hội mới. Trên từng bước đường đổi mới gặp vô
vàn khó khăn của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chứng minh một
cách rõ ràng cho quần chúng hiểu được những điều cụ thể, từng công việc cần làm
và sẽ làm được nếu tất cả mọi người cùng giác ngộ, cùng quyết tâm, đồng lòng
chung sức.
Năm là, đấu tranh lý luận phải hướng vào chủ đích là
củng cố niềm tin, sao cho toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân tin vào sự tất
thắng của sự nghiệp cách mạng, quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Một điều rất hiển nhiên là, triển vọng phát triển của đất nước phụ
thuộc đáng kể vào tư tưởng và nhận thức của con người. Khi tư tưởng đã thông,
thống nhất một cách nghĩ sẽ biến ý chí thành hành động, làm cho triệu người
đồng lòng chung sức, tạo thành lực lượng vật chất to lớn thúc đẩy xã hội tiến
lên. Yếu tố cối lõi đưa tới thống nhất tư tưởng và hành động là niềm tin. Niềm
tin trong mỗi con người là sự chắt lọc từ nhận thức và nằm trong chiều sâu nhận
thức, nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với việc định hướng tư tưởng và
định hướng hành động. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân là keo gắn
trong Đảng và giữa Đảng với nhân dân, tạo thành động lực to lớn giúp chúng ta
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Để xác lập và củng cố niềm tin, điều cần thiết nhất
là phải nâng cao trình độ giác ngộ, trình độ hiểu biết cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp
tục đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế, đối với mỗi chúng ta, chỉ có tình cảm là
không đủ, mà phải là tình cảm cách mạng dựa trên cơ sở lý luận khoa học vững
chắc. Có như vậy mới định hướng đúng cho chúng ta khi gặp những điều kiện và
biến cố phức tạp trong một thế giới đầy xáo động, ngổn ngang, bất trắc khôn
lường. Có như vậy mới đủ kiên định trước mọi thử thách của thời cuộc.
Những vấn đề nêu trên là những yêu cầu đặt ra trong
cuộc đấu tranh lý luận hiện nay và trực tiếp là cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng do Đại hội XIII vạch
ra. Càng thực hiện tốt các yêu cầu đó, cuộc đấu tranh tư tưởng nói chung và đấu
tranh lý luận nói riêng sẽ đạt được hiệu quả.
GS, TS VŨ VĂN HIỀN (Nguyên Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương)
Nhận xét
Đăng nhận xét